Thứ ba, 11/11/2025, 08:55 AM

Rút ngắn thời gian niêm yết sau IPO xuống còn 30 ngày

Trong bối cảnh nhu cầu huy động vốn trung và dài hạn của nền kinh tế ngày càng lớn, Chính phủ đang triển khai loạt giải pháp đồng bộ để phát triển mạnh mẽ kênh phát hành cổ phiếu sơ cấp (IPO) và trái phiếu doanh nghiệp (TPDN), hướng tới mục tiêu biến hai kênh này trở thành trụ cột chính của thị trường vốn quốc gia.

Theo Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán (TTCK) đến năm 2030 được phê duyệt tại Quyết định số 1726/QĐ-TTg ngày 29/12/2023, Chính phủ xác định rõ: TTCK phải phát triển ổn định, an toàn, lành mạnh và hiệu quả, đóng vai trò là kênh huy động vốn trung và dài hạn chủ yếu cho nền kinh tế. Trong đó, hai hướng đi trọng tâm là khuyến khích các loại hình doanh nghiệp thực hiện IPO gắn với niêm yết cổ phiếu trên sàn chứng khoán, và phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế.

Rút ngắn thời gian niêm yết sau IPO xuống còn 30 ngày
Thời gian xét duyệt chỉ còn 30 ngày giúp doanh nghiệp rút ngắn đáng kể quy trình niêm yết sau IPO, tăng tính linh hoạt và hiệu quả trong huy động vốn

Trước đây, theo Nghị định số 155/2020/NĐ-CP, hồ sơ niêm yết cổ phiếu chỉ được xem xét sau khi doanh nghiệp hoàn tất đợt IPO. Điều này khiến quá trình niêm yết bị kéo dài do doanh nghiệp phải bổ sung thêm báo cáo tài chính quý hoặc bán niên gần nhất, trong khi thời gian phân phối cổ phiếu kéo dài tới 3–4 tháng.

Nhằm tháo gỡ điểm nghẽn này, ngày 11/9/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 245/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 155, cho phép doanh nghiệp được thực hiện thủ tục niêm yết đồng thời với IPO.

Theo quy định mới, hồ sơ IPO và hồ sơ niêm yết cổ phiếu được xem xét song song bởi Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) và Sở Giao dịch Chứng khoán (SGDCK) ngay khi doanh nghiệp nộp hồ sơ. Nhờ vậy, thời gian xét duyệt chỉ còn 30 ngày, giúp doanh nghiệp rút ngắn đáng kể quy trình niêm yết sau IPO, tăng tính linh hoạt và hiệu quả trong huy động vốn, đồng thời đảm bảo quyền lợi nhà đầu tư khi cổ phiếu được đưa vào giao dịch sớm hơn.

Song song với thị trường cổ phiếu, Chính phủ cũng đẩy mạnh cải cách để phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp cả ở kênh phát hành ra công chúng và riêng lẻ.

Cụ thể, Luật số 56/2024/QH15 và Nghị định số 245/2020/NĐ-CP đã bổ sung các quy định về xếp hạng tín nhiệm, đại diện người sở hữu trái phiếu, cùng các yêu cầu an toàn tài chính đối với tổ chức phát hành, qua đó nâng cao tính minh bạch và bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư.

Đối với TPDN riêng lẻ, các quy định mới tại Luật Doanh nghiệp sửa đổi (Luật số 76/2025/QH15) và Luật Chứng khoán sửa đổi (Luật số 56/2024/QH15) định hướng thị trường phát triển theo chuẩn mực quốc tế, với cơ chế kiểm soát rủi ro chặt chẽ hơn.

Theo đó, quy định chỉ nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp tổ chức mới được phép mua, giao dịch và chuyển nhượng trái phiếu riêng lẻ thông thường.Nhà đầu tư chuyên nghiệp cá nhân chỉ được mua các trái phiếu có xếp hạng tín nhiệm và có tài sản bảo đảm hoặc bảo lãnh thanh toán của tổ chức tín dụng. Bổ sung quy định về tỷ lệ vốn vay của doanh nghiệp phát hành và trách nhiệm của UBND cấp tỉnh trong giám sát doanh nghiệp sau đăng ký kinh doanh.

Hiện nay, Chính phủ đang xây dựng Nghị định mới thay thế các nghị định hiện hành về phát hành TPDN riêng lẻ, nhằm hướng tới nâng cao chất lượng trái phiếu, tăng cường tính minh bạch, kiểm soát rủi ro và đáp ứng nhu cầu huy động vốn hợp pháp của doanh nghiệp.

Cùng với IPO và TPDN, thị trường trái phiếu Chính phủ vẫn là trụ cột quan trọng của thị trường vốn Việt Nam. Từ năm 2021 đến nay, thị trường này đã phát triển mạnh về quy mô và tính thanh khoản, góp phần đáp ứng nhu cầu huy động vốn cho ngân sách nhà nước phục vụ đầu tư phát triển.

Tính đến 24/10/2025, Kho bạc Nhà nước (KBNN) đã phát hành 277.272 tỷ đồng TPCP, đạt 55,5% kế hoạch cả năm (500.000 tỷ đồng), với kỳ hạn phát hành bình quân 9,84 năm. Dư nợ trái phiếu Chính phủ đạt 2,55 triệu tỷ đồng – con số cho thấy sức mở rộng ổn định của kênh vốn này.

Trong thời gian tới, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục triển khai các nhóm giải pháp trọng tâm: Hoàn thiện khung khổ pháp lý, cải tiến quy trình và kỹ thuật phát hành; Phát triển cơ sở nhà đầu tư dài hạn, đa dạng hóa sản phẩm TPCP; Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước trong điều hành chính sách tài khóa – tiền tệ để huy động vốn với chi phí hợp lý, giữ ổn định kinh tế vĩ mô; Theo dõi sát diễn biến thị trường tài chính, điều chỉnh khối lượng và lãi suất phát hành phù hợp với nhu cầu vốn và cung – cầu thị trường.