Từ chuyện Bphone tố bị 'đánh' ngẫm về hàng 'Made by Vietnam'
Định hình sản phẩm “Made by Vietnam” hay “Made in Vietnam” tức là xác định chúng ta được hưởng những lợi ích kinh tế gì trong thương mại.
Đó là phát biểu của PGS.TS Phạm Tất Thắng, nghiên cứu viên cao cấp của Bộ Công thương khi trao đổi với Đất Việt về câu chuyện hàng Việt.
Cảnh giác để không rơi vào trò cạnh tranh thiếu trung thực
PV: - CEO BKAV Nguyễn Tử Quảng mới đây đưa ra một nghi vấn rất đáng quan tâm, đó là việc có doanh nghiệp nước ngoài thuê đánh sản phẩm điện thoại Bphone của BKAV "có tổ chức" nhằm dọn thị trường cho các sản phẩm nước ngoài....
Theo ông, nghi vấn của CEO BKAV về việc sản phẩm điện thoại của doanh nghiệp này bị doanh nghiệp nước ngoài thuê người tấn công, nói xấu có căn cứ hay không, nhất là trong bối cảnh các sản phẩm công nghệ cao của doanh nghiệp Việt lâu nay vẫn mang tiếng là chỉ nhập linh phụ kiện về lắp ráp, mà chưa thể hiện được trí tuệ Việt cũng như những ưu thế nổi bật hơn các sản phẩm ngoại nhập?
PGS.TS Phạm Tất Thắng: - Việc sản phẩm được cấp C/O (giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa), ghi các nhãn xuất xứ “Made in Vietnam” hay “Made by Vietnam” rất quan trọng, nó thể hiện quyền lợi kinh tế của doanh nghiệp Việt, sản phẩm Việt trong quá trình kinh doanh quốc tế.
Do đó, đây là một trận địa mà ở đó chuyện các doanh nghiệp đánh nhau, lợi dụng nhau, triệt hạ nhau hoàn toàn có thể diễn ra một cách khốc liệt, bởi ở đâu có nhiều lợi ích thì ở đó đồng thời sẽ sinh ra sự cạnh tranh khắc nghiệt, đối chọi, dùng thủ đoạn để tiêu diệt nhau.
Ngày nay, rất nhiều sản phẩm của nước ngoài muốn đội lốt hàng “Made in Vietnam” để né thuế cao đối với sản phẩm của họ. Doanh nghiệp nước ngoài có thể mua chuộc doanh nghiệp Việt, lấy danh nghĩa, đội mũ sản phẩm Việt Nam để hưởng lợi. Và người tiếp tay cho doanh nghiệp nước ngoài làm việc đó có thể được hưởng chút lợi lộc, nhưng doanh nghiệp nước ngoài mới là người hưởng lợi chính ở đây. Đương nhiên, cái hại thì doanh nghiệp Việt, đất nước Việt Nam gánh chịu.
Một kiểu khác là doanh nghiệp nước ngoài có thể mượn tay cá nhân hay tổ chức để “đánh” doanh nghiệp Việt, đẩy doanh nghiệp Việt cùng sản phẩm Việt đến chỗ bị mất uy tín, thậm chí bị tiêu diệt và doanh nghiệp nước ngoài sẽ nổi lên, đưa sản phẩm của họ vào thế chân. Rất có thể Bphone nằm trong trường hợp này, tuy nhiên họ phải thu thập chứng cứ, chứng minh được điều đó.
Dù với cách nào đi chăng nữa thì doanh nghiệp Việt cũng phải hết sức cảnh giác để không bị rơi vào trò cạnh tranh thiếu trung thực.
Một ví dụ có thể thấy rất rõ là từ năm ngoái, khi chiến tranh thương mại Mỹ-Trung diễn ra, Tổng thống Donald Trump đã chính thức tăng mức thuế từ 10 đến 25% đối với khoảng 200 tỷ USD hàng nhập khẩu từ Trung Quốc. Thời điểm đó, giới chuyên gia đã cảnh báo việc kiểm soát thiếu hiệu quả khiến hàng hóa từ Trung Quốc không chỉ tràn vào Việt Nam để tiêu thụ với giá rẻ, mà còn tìm cách núp bóng xuất xứ Việt Nam để xuất khẩu sang Mỹ và các nước khác.
Khi ấy, hàng hóa Việt Nam sẽ phải hứng chịu đòn trừng phạt thuế rất cao của Mỹ. Một số mặt hàng như thép, gỗ… của Việt Nam đã từng bị “vạ lây” từ hàng Trung Quốc tràn vào núp bóng xuất xứ hàng Việt để né thuế.
PV: - Trong trường hợp nghi vấn của CEO BKAV về việc doanh nghiệp nước ngoài thuê người "đánh" sản phẩm Bphone là có cơ sở, ông hình dung việc này có tác động như thế nào đến hình ảnh, thương hiệu và uy tín của Bphone? Trong trường hợp đó Bphone nên hành động thế nào? Ông đã từng chứng kiến thương hiệu nào của Việt Nam rơi vào tình cảnh tương tự chưa? Nếu có, họ ứng xử ra sao?
PGS.TS Phạm Tất Thắng: - Đương nhiên nếu thực sự sản phẩm của doanh nghiệp Việt bị cạnh tranh không lành mạnh như vậy, nó sẽ khiến uy tín của doanh nghiệp Việt và hàng Việt bị hủy hoại, thiệt hại về mặt lâu dài là rất lớn.
Điều nguy hiểm ở chỗ, trong trường hợp có kẻ tiếp tay cho doanh nghiệp ngoại bêu xấu, hạ bệ sản phẩm của doanh nghiệp Việt, tức là đã dọn đường cho doanh nghiệp ngoại lớn lên, xâm nhập vào thị trường Việt Nam, rồi sau đó chính doanh nghiệp ngoại sẽ quay lại “nuốt chửng” doanh nghiệp Việt, thậm chí “nuốt” cả những kẻ tiếp tay.
Trường hợp Asanzo là một điển hình. Đó là một thương hiệu Việt vừa bắt đầu gây dựng được chỗ đứng thì vướng lùm xùm. Dù nghi vấn nhập hàng Trung Quốc dán mác “Made in Vietnam” chỉ ghi nhận ở một loại sản phẩm, nhưng sức tiêu thụ của các mặt hàng khác cũng bị ảnh hưởng lớn.
Điều đáng nói, Việt Nam là nền kinh tế gia công, việc nhập khẩu linh kiện Trung Quốc về để lắp ráp là chuyện rất phổ biến và hàm lượng giá trị gia tăng của Việt Nam ở trong đó rất thấp. Lỗi của doanh nghiệp ở đây chính là sự mập mờ, cùng với sự chỉ trích của dư luận và truyền thông thì doanh nghiệp này đã bị làm cho bầm dập.
Trong trường hợp của Bphone, trước thông tin sản phẩm điện thoại này là của Trung Quốc gắn mác BKAV, doanh nghiệp hoàn toàn có thể công khai tỷ lệ nhập linh kiện từ nước ngoài là bao nhiêu, tỷ lệ gia công là bao nhiêu, giá trị của sản phẩm nằm ở phần nào, phần nào do BKAV làm chủ... Từ đó, mới có cơ sở để khẳng định sản phẩm Bphone có thực sự là hàng “Made in Vietnam” hay không.
Có ý kiến đề xuất nên khởi kiện ra tòa, nói chuyện với nhau bằng luật pháp quốc tế, nhưng tôi nghĩ phải xem xét từng trường hợp cụ thể, bởi ra tòa thì phải mất chi phí, được hay thua đều ảnh hưởng đến danh tiếng của doanh nghiệp.
“Made in Vietnam” hay “Made by Vietnam”, mấu chốt là lợi ích kinh tế
PV: - Từ câu chuyện của Bphone, trước đó là Asanzo, trong bối cảnh Việt Nam ngày càng tham gia vào nhiều hiệp định thương mại tự do, có ý kiến cho rằng nếu muốn thực sự tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, giảm thiểu rủi ro khi đối mặt với các yêu cầu chứng minh nguồn gốc xuất xứ hàng hóa của các thị trường khó tính, thì việc Việt Nam có các sản phẩm “Made by Vietnam” (nôm na là sản phẩm hàng hóa được "tạo ra bởi người Việt") trở nên quan trọng hơn "Made in Vietnam” (làm tại Việt Nam).
Ông chia sẻ với quan điểm này thế nào? Nếu vậy, phải ứng xử thế nào với các sản phẩm của doanh nghiệp Việt mà người Việt chưa hoàn toàn làm chủ công nghệ?
PGS.TS Phạm Tất Thắng: - Phải thừa nhận rằng trong thế giới toàn cầu này, hội nhập quốc tế được thể hiện ngay trong một sản phẩm. Mỗi sản phẩm ấy không phải là của riêng một quốc gia nào mà đó là sản phẩm của trí tuệ đến từ nhiều quốc gia.
Con cá tra của Việt Nam là một ví dụ, nó được nuôi trên đất Việt Nam, bằng nguồn nước Việt Nam, công sức của người Việt Nam, nhưng trong con cá tra vẫn có nhiều yếu tố nước ngoài, như chế phẩm sinh học để bảo vệ sức khỏe cho con cá, thức ăn, máy móc để chế biến cá đều nhập từ nước ngoài.
Một hãng lắp ráp hàng điện tử coi sản phẩm của mình là “Made in Vietnam”, nhưng nhiều ý kiến cho rằng đó chỉ là hàng lắp ráp tại Việt Nam mà thôi, vì doanh nghiệp chỉ nhập linh phụ kiện của nước ngoài về lắp ráp.
Từ đây đặt ra một vấn đề, việc định hình sản phẩm “sản xuất tại Việt Nam” hay “sản xuất bởi Việt Nam” cần được phân biệt với các tiêu chí rõ ràng. Dựa vào đó, mới có thể cấp C/O và quan trọng là đảm bảo quyền lợi cho người sản xuất cũng như quyền lợi của quốc gia xuất khẩu hàng hóa đó.
Trong các hiệp định thương mại tự do đều có các quy định hết sức cụ thể liên quan đến nguồn gốc xuất xứ hàng hóa. Khi chứng minh được nguồn gốc xuất xứ, hàng hóa của quốc gia đó sẽ được hưởng lợi ích thuế suất bằng 0 hoặc các ưu đãi khác.
Như hàng may mặc, nếu ở Hiệp định thương mại tự do (FTA) Việt Nam - EU nguồn gốc xuất xứ tính từ vải, thì ở Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) nguồn gốc xuất xứ được tính từ sợi, nghĩa là sợi đó phải do Việt Nam sản xuất thì mới được chứng nhận C/O của Việt Nam để được hưởng thuế suất bằng 0.
Bên cạnh đó, trong yêu cầu về nguồn gốc xuất xứ hàng hóa còn có tiêu chí tính gộp: Nếu không tự sản xuất ra được thì Việt Nam có quyền nhập khẩu từ các quốc gia cùng ký FTA với mình để tính quy tắc xuất xứ theo yêu cầu của FTA đặt ra.
Bởi hàng hóa không ở mức độ thuần túy nên việc chứng minh xuất xứ trở nên khó khăn và phức tạp. Đây cũng là một lý do khiến yêu cầu phải có quy định pháp lý, tiêu chí về hàng “Made in Vietnam” hay “Made by Vietnam”, đo lường bằng con số cụ thể, trong trường hợp nào thì áp dụng mỗi cách ghi như vậy.
Tôi được biết Bộ Công thương hiện đang có đề tài nghiên cứu về vấn đề này để từ đó đưa ra đề xuất và quy định trong nghị định một cách rõ ràng, tránh tranh cãi lộn xộn như hiện nay.
Nhiều ý kiến cho rằng có được sản phẩm “Made by Vietnam” mới giúp Việt Nam có thể thực sự tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, đồng thời đó cũng là một khía cạnh quan trọng trong định vị thương hiệu quốc gia. Nhưng cũng cần lưu ý rằng, dù là “Made by Vietnam” hay “Made in Vietnam” thì cuối cùng chúng cũng phải được thể hiện thông qua lợi ích kinh tế, tức nhờ đó mà hàng Việt được hưởng các ưu đãi về thuế quan và các ưu đãi khác trong thương mại ở mức độ nào, chứ không đơn thuần chỉ là danh tiếng hay niềm tự hào chung chung.
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta phải chấp nhận và không có gì phải chê trách khi có rất nhiều sản phẩm của doanh nghiệp Việt mà người Việt chưa hoàn toàn làm chủ được công nghệ. Chúng ta cũng không thể mong muốn một sản phẩm nào đó hoàn toàn do Việt Nam sản xuất, trái lại một sản phẩm chứa đựng nhiều trí tuệ của nhân loại thì nên lấy làm mừng. Quan trọng là chúng ta nắm ở khâu nào, nắm với lượng bao nhiêu, tùy theo sản phẩm, để từ đó có thể đưa ra quyết định tổ chức sản xuất cho phù hợp.
Cũng vì lẽ đó, nhiều năm trở lại đây, Nhà nước ta đã đặt ra vấn đề phải phát triển công nghiệp hỗ trợ. Khi Việt Nam có được công nghiệp hỗ trợ, tự sản xuất được các yếu tố đầu vào để cung cấp cho quá trình làm ra một sản phẩm hoàn chỉnh thì dần dần hàm lượng mang tính chất “của Việt Nam”, được ‘tạo ra bởi người Việt Nam” sẽ nâng lên. Còn khi chưa thể có được nền công nghiệp hỗ trợ như vậy thì đương nhiên phải chấp nhận nhập khẩu của nước ngoài.
PV: - Để tiến tới có được sản phẩm "tạo ra bởi người Việt" thay vì "làm tại Việt Nam", theo ông, phải làm gì để khuyến khích, bảo vệ các doanh nghiệp Việt kèm theo những yêu cầu cam kết thế nào khi trước mắt họ chưa thể làm chủ được công nghệ?
PGS.TS Phạm Tất Thắng: - Tôi nghĩ đòi hỏi đầu tiên là phải có sự đầu tư về mặt trí tuệ, công nghệ. Doanh nghiệp Việt phải làm chủ được về mặt công nghệ, đi sâu vào nghiên cứu và phát triển để nâng cao năng lực sáng tạo, từ đó tích lũy, kết tinh nó trong sản phẩm. Sáng tạo càng lớn thì hàm lượng “Việt Nam” trong sản phẩm càng nhiều.
Ví dụ, BKAV có thể nhập các linh kiện của nước ngoài về để làm nên chiếc điện thoại Bphone. Điều đó không quan trọng bằng việc sự sáng tạo, trí tuệ Việt ở trong chiếc điện thoại đó chiếm tỷ trọng lớn nhất. Nó nằm ở phần thiết kế sản phẩm, phần mềm, hệ điều hành và đó mới là những yếu tố quyết định sản phẩm có phải là hàng của Việt Nam hay không, được tạo ra bởi người Việt Nam hay không.
Đòi hỏi thứ hai là phải có một hệ thống công nghiệp hỗ trợ để sản xuất ra linh kiện, yếu tố đầu vào cho sản phẩm.
Ví dụ, muốn phát triển ngành dệt may, được hưởng ưu đãi thuế quan từ các FTA mà Việt Nam đã ký kết thì Việt Nam phải sản xuất ra sợi. Khâu sợi Việt Nam đang làm rất tốt, năng lực sản xuất dư dả, đủ sức cung cấp cho doanh nghiệp dệt may trong nước và cả xuất khẩu.
Tuy nhiên, từ sợi để trở thành nguyên liệu cho ngành dệt may cần phải trải qua khâu hoàn tất, nhuộm, tẩy, xử lý, mà khâu này Việt Nam rất yếu. Vướng mắc nằm ở chỗ sự phối hợp giữa các doanh nghiệp, bộ, ngành, địa phương để triển khai công nghiệp sợi ở một số địa phương chưa đồng bộ. Do lo ngại ô nhiễm môi trường nên nhiều địa phương đã từ chối, không muốn nhận công nghiệp sợi hoàn tất.
Một khó khăn khác, Việt Nam rất giỏi trong việc biến vải thành một sản phẩm hoàn chỉnh, nhưng sáng tạo ra kiểu mẫu thế nào có khi phải mua của nước ngoài. Hay trong công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may có nhánh phụ trợ với hàng nghìn sản phẩm khác nhau, tùy theo đơn hàng khác nhau mà có những yêu cầu khác nhau. Khi doanh nghiệp Việt Nam triển khai khâu này thì vấp phải vấn đề quy mô sản xuất không đủ lớn để hạ giá thành.
Các loại chỉ, móc, cúc, khóa đặc thù cho đến nay Việt Nam vẫn phải nhập của Trung Quốc. Thực ra nếu doanh nghiệp Việt đầu tư thì vẫn có thể đáp ứng yêu cầu sản xuất, chất lượng sản phẩm, nhưng lại không mang lại hiệu quả kinh tế vì quy mô không đủ lớn. Do đó, các sản phẩm này vẫn phải nhập khẩu.
Bất kỳ việc gì cũng có mặt được, mặt mất, không thể vì lợi ích kinh tế mà đánh đổi môi trường. Cùng với đó, phải đặt ra vấn đề vốn ở đâu; công nghệ ở đâu? Nếu không giải quyết được các khâu cơ bản này thì không thể phát triển nền kinh tế.
Cho nên, trong quá trình phát triển kinh tế, phát triển ở mức nào thì cần tính toán giữa cái được với cái mất, doanh nghiệp ta làm chủ công nghệ đến đâu, có nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu đó đến đâu... Nếu mong muốn tỷ trọng hàng Việt Nam cao lên, nhưng lại không có điều kiện để thực hiện, thì đó mãi chỉ là ước vọng mà thôi.
Theo Thành Luân/Báo Đất Việt
Link nguồn: https://baodatviet.vn/kinh-te/thi-truong/tu-chuyen-bphone-to-bi-danh-ngam-ve-hang-made-by-vietnam-3412309/
Coteccons (CTD) đặt mục tiêu doanh thu kỷ lục, rục rịch thành lập "công ty con"
Đặt cược vào cột mốc 30.000 tỷ đồng, Coteccons đồng thời trình cổ đông kế hoạch phát hành cổ phiếu thưởng và thành lập công ty con ở nước ngoài.
Hạ tầng Giao thông Đèo Cả (HHV) sắp chào bán hơn 49 triệu cổ phiếu, dự kiến huy động về gần 500 tỷ đồng
Động thái này diễn ra trong bối cảnh Hạ tầng Giao thông Đèo Cả duy trì đà tăng trưởng lợi nhuận và được dự báo triển vọng kinh doanh tích cực trong năm 2025.
Cổ phiếu BCG bị đình chỉ giao dịch, Bamboo Capital lên phương án khắc phục
Sau khi HoSE công bố quyết định chuyển cổ phiếu BCG từ diện hạn chế giao dịch sang đình chỉ giao dịch, Tập đoàn Bamboo Capital đã có văn bản giải trình và nêu lên phương án khắc phục.
Ông lớn bệnh viện TNH phát hành hơn 21,6 triệu cổ phiếu thưởng, vốn điều lệ vượt mốc 1.600 tỷ đồng
Dù kết quả kinh doanh bán niên 2025 sụt giảm mạnh, chuyển từ lãi sang lỗ sau thuế hơn 54 tỷ đồng, Công ty Cổ phần Tập đoàn Bệnh viện TNH (MCK: TNH) vẫn ghi...
AgriS (SBT) báo lãi gần 1.000 tỷ đồng, trình cổ đông lộ trình vốn hóa 2,7 tỷ USD
AgriS (SBT) trình cổ đông chiến lược đầy tham vọng, đặt mục tiêu doanh thu 60.000 tỷ đồng và vốn hóa 2,7 tỷ USD vào năm 2030.
Alphanam rót gần 10.000 tỷ đồng vào Sa Pa, tham vọng biến nơi đây thành “thủ phủ nghỉ dưỡng quốc tế”
Chỉ trong thời gian ngắn, Alphanam liên tục khởi công các dự án nghìn tỷ tại Sa Pa, mở ra diện mạo mới cho thị trường bất động sản nghỉ dưỡng miền núi phía Bắc.
Chỉ 18% doanh nghiệp Việt Nam có kết nối tham gia chuỗi giá trị toàn cầu
Tại Diễn đàn Kinh tế mới Việt Nam 2025 với chủ đề “Sức bật kinh tế Việt Nam: từ nội lực tới chuỗi giá trị toàn cầu”,...
Bất ngờ “rút chân” khỏi Đại học Hùng Vương chỉ sau 4 tháng, Kinh Bắc (KBC) đang toan tính gì?
Từng chi hàng trăm tỷ đồng để giành quyền kiểm soát Đại học Hùng Vương TP.HCM hồi tháng 5, thế nhưng chỉ sau vỏn vẹn 4 tháng, Kinh Bắc...
“Ông trùm” khu công nghiệp Nam Tân Uyên được chấp thuận niêm yết trên sàn HoSE, vốn hóa đạt gần 4.000 tỷ đồng
Nam Tân Uyên (NTC) – “đại gia” khu công nghiệp tại Bình Dương – vừa chính thức được chấp thuận niêm yết gần 24 triệu cổ phiếu trên HoSE....
Thủ thuật thao túng giá cổ phiếu AGG của Bất động sản An Gia
Ông Hồ Thành Trung đã sử dụng 92 tài khoản để liên tục mua, bán, giao dịch cổ phiếu AGG giữa các tài khoản nhằm mục đích tạo cung cầu giả tạo, thao túng giá cổ phiếu AGG.
Chính thức rời “sân chơi” công ty đại chúng, Bibica định hình lại chiến lược sau gần 24 năm niêm yết
Việc hủy tư cách công ty đại chúng đánh dấu bước ngoặt lớn của Bibica (BBC), khi doanh nghiệp mở rộng đến những lĩnh vực mới như chế biến thủy sản, sản xuất đồ uống...
Vinamilk (VNM) dự chi gần 6.000 tỷ đồng cổ tức tiền mặt ngay trong tháng 10
Cổ đông Vinamilk sắp nhận “mưa tiền mặt” khi doanh nghiệp dự chi gần 6.000 tỷ đồng trả cổ tức, tín hiệu tich cực giữa bối cảnh thị trường sữa còn nhiều thách thức.
Sợi Phú Bài (SPB) hé lộ kết quả kinh doanh 9 tháng 2025: Uớc đạt 10.950 tấn, gần chạm mốc kế hoạch cả năm
CTCP Sợi Phú Bài (SPB) là doanh nghiệp dệt may đầu tiên công bố bức tranh kinh doanh 9 tháng năm 2025. SPB ghi nhận doanh thu thuần ước đạt 822 tỷ đồng...
Vingroup (VIC) muốn phát hành 3.500 tỷ đồng trái phiếu riêng lẻ
Chỉ trong thời gian ngắn, Vingroup đã phê duyệt tổng cộng 6.000 tỷ đồng trái phiếu riêng lẻ nhằm tái cơ cấu nợ và củng cố nền tảng tài chính vững chắc của tập đoàn.
FDI vào Việt Nam lập kỷ lục 5 năm, ADB nâng dự báo tăng trưởng 2025
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất ổn, Việt Nam tiếp tục ghi nhận những tín hiệu tích cực từ cả dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)...
Hoán đổi nợ thành cổ phiếu: Một doanh nghiệp chính thức đặt chân vào nhóm cổ đông lớn HAGL
CTCP Hoàng Anh Gia Lai (HAGL, HoSE: HAG) tiếp tục gây chú ý trên thị trường khi thực hiện hoán đổi nợ thành cổ phần...
Thoái vốn khỏi Cát Bà Amatina, Vinaconex (VCG) bổ nhiệm Phó TGĐ Vinaconex ITC vào ban điều hành
Mới đây, Vinaconex vừa bổ nhiệm ông Lê Văn Huy và ông Nguyễn Hải Đăng giữ chức Phó Tổng giám đốc, đánh dấu bước thay đổi quan trọng trong bộ máy điều hành.
Nông nghiệp BAF chính thức bắt tay Tập đoàn Muyuan thực hiện dự án “chung cư nuôi heo” 12.000 tỷ tại Tây Ninh
Nửa đầu 2025, BAF ghi nhận sản lượng heo đạt 330.000 con, đồng thời doanh nghiệp vừa ký hợp tác với Muyuan (Trung Quốc) triển khai dự án chăn nuôi nhà cao tầng...
“Ông lớn” Nhật Bản Sanyo Denki rót hơn 1.200 tỷ đồng xây nhà máy sản xuất “khủng” tại Hưng Yên
Việc Sanyo Denki rót hơn 1.200 tỷ đồng xây nhà máy tại Hưng Yên không chỉ khẳng định sức hút đầu tư của tỉnh, mà còn mở ra cơ hội để Việt Nam...